Thư
góp ý cho HÐGMVN
nhân dịp họp vào tháng 9-2001
nhân dịp họp vào tháng 9-2001
Nguyễn Chính Kết
Trọng kính
– Ðức Hồng Y
– Quý Ðức Cha
– Quý Cha Thư Ký
trong Hội Ðồng Giám Mục Việt
Con
chỉ là một tín hữu nhỏ bé trong cộng đồng Ki-tô hữu Việt Nam xin được góp một số ý kiến xây
dựng Giáo hội nhân dịp HÐGM họp vào ngày 15-9-2001 này.
Tất
cả những ý kiến bầy tỏ trong thư này :
–
hoàn toàn là của cá nhân con, không đại diện cho bất cứ ai, mặc dù con biết rất
nhiều người khác cũng muốn nói lên những ý kiến này, nhưng vì một lý do nào đó
đã không nói lên được.
–
hoàn toàn do sự thúc đẩy của lương tâm con, một Ki-tô hữu đang đứng trước hiện
trạng của Giáo hội và Ðất nước, không do một động lực nào khác, và cũng bất
chấp phải trả giá ít hay nhiều cho việc làm này.
Rất
mong Ðức Hồng Y, Quý Ðức Cha và Quý Cha tin tưởng rằng con luôn yêu mến Giáo
hội và Quê hương, luôn quí trọng tất cả những ai được Thiên Chúa trao cho trách
nhiệm lãnh đạo Giáo hội, Xã hội. Con hy vọng rằng trong quá khứ, con đã chứng
tỏ được điều ấy qua thái độ và việc làm của con. Chính lòng yêu mến và quí
trọng ấy cũng thúc đẩy con mạnh dạn góp ý xây dựng.
Bối
cảnh Giáo hội hiện nay
Giáo
hội Công giáo Việt Nam cũng như Giáo hội của các tôn giáo khác hiện nay được
phép hoạt động trong khuôn khổ qui định của nhà nước, cụ thể là nghị định
26/CP. Những sinh hoạt tôn giáo tương đối được tự do là việc phụng tự (thánh
lễ, cử hành các bí tích), xây nhà thờ... nói chung là những sinh hoạt liên quan
đến hình thức bên ngoài của tôn giáo hơn là tổ chức bên trong. Việc tổ chức cơ
cấu nội bộ Giáo hội hoàn toàn phải có sự xét duyệt và đồng ý của chính quyền
mới được thi hành. Dẫu sao, cũng phải nhìn nhận rằng nhờ sự tranh đấu của một
số thức giả, chính sách đối với tôn giáo ngày càng thông thoáng hơn, nhưng với
tốc độ rất chậm, không đáp ứng được nhu cầu tâm linh và thực tế của tôn giáo.
Vì
thế, trong những thập niên qua, Giáo hội Việt Nam đã gặp rất nhiều khó khăn, cụ
thể là :
Việc
thông tin liên lạc với thế giới và Giáo hội toàn cầu bị gián đoạn một thời gian
khá dài, khiến Giáo hội Việt Nam
nhất là ở miền Bắc bị lỗi nhịp so với đà tiến của Giáo hội toàn cầu.
Việc
đào tạo những người làm việc cho Giáo hội không được dễ dàng như những thập
niên trước : bị giới hạn về thời gian và phương tiện đào tạo, về việc mở chủng
viện và tuyển người để đào tạo theo tiêu chuẩn của Giáo hội, về việc chọn những
người có khả năng huấn luyện... Do đó, chất lượng về tâm linh và tri thức của
những người được đào tạo để làm việc cho Giáo hội bị giảm sút rất nhiều, đang
khi nhu cầu thực tế đòi buộc phải tăng chất lượng ấy lên rất nhiều. Ðây là một
nguy cơ rất lớn cho tương lai Giáo hội.
Việc
bổ nhiệm những người làm việc trong Giáo hội bị lệ thuộc chặt chẽ vào chính
quyền, vào Ban Tôn Giáo. Giáo hội có tiêu chuẩn riêng của Giáo hội, chính quyền
lại có tiêu chuẩn của chính quyền, hai tiêu chuẩn khác biệt nhau khiến cho việc
bổ nhiệm nhiều khi không thực hiện được (chẳng hạn tình trạng trống ngôi giám
mục rất lâu ở một vài giáo phận, hoặc tình trạng không có linh mục kéo dài ở
một số giáo xứ hoặc khu vực... bất chấp nhu cầu cấp bách của Giáo hội và tín
hữu).
Ðã
27 năm nay, Giáo hội không có một tờ báo hay nguyệt san chính thức nào của mình,
của HÐGM, nên dân Chúa ít được nghe những tiếng nói chính thức của Giáo hội. Do
đó, người tín hữu bị mất đi một nguồn thông tin và hướng dẫn quan trọng để được
bồi dưỡng về tâm linh, hầu sống đúng theo tinh thần của Chúa Kitô và Giáo hội.
Nhiều
việc mà Giáo hội ở hầu hết các Quốc gia trên thế giới có thể tự động làm như
một quyền tự nhiên và căn bản của con người, không phải xin xỏ ai, thì ở nước
ta hiện nay Giáo hội phải ngửa tay xin xỏ chính quyền như xin những ân huệ, họ
có cho phép thì mới được làm. Và họ đã ban cho Giáo hội những «ân huệ» ấy một cách nhỏ giọt.
v.v...
Vì
thế, sự phát triển của Giáo hội Việt Nam bị ngưng trệ hoặc chậm lại so
với sự phát triển của các Giáo hội địa phương khác, trong những Quốc gia khác.
Do đó, về nhiều mặt, Giáo hội Việt Nam đã tụt hậu lại càng tụt hậu
hơn. Vì thế, đứng trước tương lai không mấy khả quan của Giáo hội, chúng ta cần
nỗ lực nhiều hơn nữa, làm sao để Giáo hội phát triển, thăng tiến đúng với tầm
vóc phải có của mình, hầu theo kịp với đà tiến chung của Giáo hội toàn cầu.
Nhất là cần phải đấu tranh để tôn giáo được tự do một cách thỏa đáng, đó cũng
là điều kiện tối cần thiết để thực hiện sự thăng tiến ấy.
Về
việc thăng tiến Giáo hội
Ðể
thăng tiến Giáo hội trong hoàn cảnh khó khăn này, con tha thiết đề nghị với
HÐGM :
1.
Hãy khuyến khích và tạo mọi điều kiện đồng đều để mọi thành phần dân Chúa -
nhất là những người có tâm huyết và khả năng - đóng góp vào việc xây dựng Giáo
hội, ngay cả trong những việc quan trọng. Không nên dành độc quyền xây dựng
Giáo hội cho hàng giáo phẩm hoặc giới giáo sĩ, và chỉ dành cho những giới khác
góp phần trong những chuyện thuộc hàng thứ yếu. Thiết tưởng Giáo hội là toàn
thể dân Chúa, và cũng là của toàn thể dân Chúa, chứ Giáo hội không phải chỉ là
hàng giáo phẩm hay giáo sĩ, càng không phải là của hàng giáo phẩm hay giáo sĩ.
Trong những điều kiện khó khăn như hiện nay, Giáo hội cần phải tận dụng năng
lực của mọi thành phần dân Chúa để phát triển.
Từ
thời xa xưa, các vua ở nước ta cũng như các nước Á châu khác đã biết tuyển dụng
người tài đức trong dân chúng thuộc bất kỳ thành phần nào để họ ra giúp nước,
chứ không dành riêng việc giúp nước cho một giới hay một đảng phái nào. Nhờ vậy
Ðất nước mới đi lên được. Cái họa của một Ðất nước hay một Giáo hội có thể đến
từ tình trạng người bất tài thiếu đức thì được trọng dụng chỉ vì họ gia nhập
hoặc thuộc về một giới hay một đảng phái được ưu đãi nào đó ; còn kẻ có tài đức
thì bị gạt ra ngoài chỉ vì họ không thuộc về giới hay đảng phái được ưu đãi ấy.
Giáo hội hay Xã hội như thế hẳn không phải là vì Chúa, vì dân, vì nước, cho
bằng vì giới hay đảng phái được ưu đãi ấy.
2.
Ðối với những cuộc họp quan trọng của HÐGM có tầm quan trọng quyết định hướng
đi cho toàn dân Chúa, HÐGM nên khuyến khích và lắng nghe sự góp ý rộng rãi của
mọi thành phần dân Chúa, và nên có đại diện của những thành phần đó trong cuộc
họp. Các giám mục dù có khôn ngoan và sáng suốt tới đâu cũng không thể thấy hết
mọi vấn đề và mọi khía cạnh của đời sống dân Chúa, cũng không dồi dào sáng kiến
và năng lực để làm dân Chúa phát triển hữu hiệu cho bằng có sự góp ý góp sức
của mọi thành phần dân Chúa.
Vả
lại, đây là cách tạo điều kiện để hình thành một «Giáo hội tham gia» (participatory Church) theo tinh thần của Thượng
Hội Ðồng Giám Mục Á châu năm 1999 tại Rôma (xem Tông huấn Giáo hội tại châu Á,
số 25ớ2 và 45ớ3). HÐGM không nên đơn phương suy nghĩ, làm việc và quyết định
một mình. Thời nay, cách làm việc như thế xem ra không còn thích hợp nữa. Trước
những quyết định đơn phương của HÐGM, dân Chúa sẽ có cảm tưởng bị áp đặt. Ðiều
này hoàn toàn đi ngược lại tinh thần Giáo hội tham gia mà chính Quý Ðức Cha đã
góp phần chủ trương trong Tông huấn Giáo hội tại châu Á.
3.
Giáo hội đã rao giảng về Ðức Ki-tô và giáo thuyết của mình suốt 2000 năm nay,
nhưng cho tới nay, dân số Giáo hội không tăng lên, dù mới được khoảng một phần
ba thế giới, hay khoảng 7-8% tại Việt Nam, và đang có nguy cơ giảm sút. Thiết
tưởng đã tới lúc Giáo hội cần chú trọng tới việc làm chứng hơn rao giảng. Rao
giảng đã quá nhiều và quá đủ so với việc làm chứng trong thực tế chưa được đặt
nặng đủ. Thế giới và đồng bào Việt Nam đang nhìn vào Giáo hội để xem
các tín hữu - nhất là giới chuyên rao giảng - thực hành những điều mình rao giảng
và chủ trương như thế nào.
Ðiều
quan trọng không phải là cứ rao giảng cho xong bổn phận của mình, không cần
biết người nghe có «tâm phục khẩu phục»
để tin và nghe theo hay không. Rao giảng những điều mà chính mình không chịu
làm thì Ẩ sẽ làm cho người ngoài dần dần nhìn đạo như một mớ lý thuyết không
thực tế, và do đó chẳng hấp dẫn được ai. Nếu người Ki-tô hữu chúng ta miệng thì
rao giảng tinh thần Ðức Ki-tô, còn đời sống và cách hành xử lại đi ngược với
tinh thần ấy, thì hóa ra chúng ta đã trở thành những kẻ «đội lốt chiên» (Mt 7,15) trước mặt người khác!
4.
Giáo hội cần phải gắn bó với Dân tộc và Quê hương nhiều hơn, đừng chỉ nghĩ tới
quyền lợi riêng của Giáo hội, đừng chỉ lo cho Giáo hội mình được ưu đãi và dễ
dàng, mà quên đi quyền lợi chung của toàn Dân tộc và của tất cả các tôn giáo.
Thái độ cục bộ ấy không thích hợp với người Ki-tô hữu, nó sẽ làm cho Giáo hội
tách rời khỏi Dân tộc và các tôn giáo bạn. Ðấy cũng là một thứ ích kỷ và thiển
cận, đi ngược lại tinh thần Ki-tô giáo.
Chẳng
hạn thái độ sẵn sàng ngửa tay xin những ân huệ nhỏ giọt của kẻ cầm quyền để mọi
sinh hoạt tôn giáo của mình được thuận lợi (chẳng hạn được chấp thuận cho phong
chức một số linh mục hay giám mục, được xuất ngoại dễ dàng, được xây những ngôi
nhà thờ lộng lẫy...). Thái độ ấy có thể chỉ góp phần làm cho tình trạng «có vẻ có tự do tôn giáo» tăng lên, chỉ
làm cho thế giới lầm tưởng và ngộ nhận, gây bất lợi cho tự do tôn giáo đích
thực, cho cuộc đấu tranh đòi tự do tôn giáo của dân chúng.
Giáo
hội cần có một cái nhìn toàn cục và lâu dài, chứ không phải một cái nhìn cục bộ
và nhất thời. Chẳng lẽ Giáo hội cứ bằng lòng với kiểu cách ngửa tay xin đó mãi,
không mong muốn gì khác hơn?! Và bắt Vatican
cũng phải ngửa tay xin theo! Người Ki-tô hữu cần bất khuất và anh dũng hơn một
chút vì lợi ích và sự phát triển lâu dài của mình! Lý do gì khiến Giáo hội ta
không thể tự do làm những việc thuộc nội bộ tôn giáo như hầu hết các Giáo hội
địa phương khác trên thế giới, mà cứ phải xin phép mới được làm ? Giáo hội
chúng ta không thể tự ý quyết định được điều gì bảo đảm không có hại cho Ðất
nước nên cần phải xin phép trong hầu hết mọi chuyện, không khác gì một đứa trẻ
sao ? Giáo hội chúng ta chưa trưởng thành cần được chính quyền giám sát và bảo
hộ, hay Ðất nước ta chưa có tự do tôn giáo?
Về
cuộc đấu tranh cho nhân quyền và tự do tôn giáo hiện nay
Trong
tinh thần gắn bó với Quê hương và Dân tộc, Giáo hội cũng cần gắn bó với những
cuộc đấu tranh có chính nghĩa của dân chúng trong nước.
Hiện
nay, cao trào đấu tranh đòi tự do dân chủ và thực thi nhân quyền trong đó có tự
do tôn giáo tại Việt Nam
đã bùng nổ, đặc biệt từ cuối năm 2000. Con nhận thấy cuộc đấu tranh này hết sức
chính nghĩa, vì rõ ràng là dân Việt chúng ta, so với rất nhiều Dân tộc khác,
chưa có tự do dân chủ ở mức độ thỏa đáng, và những quyền căn bản của con người
chưa được tôn trọng đủ. Ðó là điều mà ngoài những dữ kiện có được, con còn cảm
nhận bằng chính kinh nghiệm bản thân.
Khi
con chỉ mới lên tiếng ủng hộ cuộc đấu tranh cho tự do tôn giáo của cha Lý, chưa
hề làm một điều gì mà con nghĩ là vi phạm pháp luật, thậm chí chưa hề nói xấu
chính quyền một điều gì, thì đã bị cúp điện thoại, cúp email, xét nhà, «tạm giữ» máy vi tính cùng khá nhiều dĩa
mềm và dĩa CD suốt từ 5-4-2001 đến nay, và phải làm việc với chính quyền cả
tuần lễ. Từ đó đến nay là 5 tháng trời, con và gia đình con đã phải chịu đựng
biết bao khó khăn trong đời sống do hậu quả của những phiền nhiễu ấy. Thử hỏi
người dân ở đa số các nước trên thế giới mà hành động như con thì có bị phiền
phức như thế không? (không nói tới một vài nước đang bị dư luận thế giới kết án
vi phạm nhân quyền).
Con
còn nhớ tác giả cuốn Ruồi Trâu là bà Ê-ten Vôi-nít-sơ, cách đây cả nửa thế kỷ,
đã viết cuốn sách ấy tại Nữu Ước - một thành phố lớn của Mỹ - có nội dung bêu
xấu tôn giáo và chế độ tư bản, được xuất bản khắp thế giới Cộng Sản, thế mà bà
ấy vẫn có thể tiếp tục sống an bình trên đất Mỹ (theo lời tựa của cuốn sách)!
Khi
con viết thư này, con cũng đang phải chuẩn bị đón nhận một sự phiền hà và sách
nhiễu khác có thể sẽ xảy ra cho con và những người thân của con ngay sau khi
gửi bức thư này cho HÐGM. Những chuyện vừa mới xảy ra đây với những người tranh
đấu cho tự do dân chủ dù hết sức ôn hòa như Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ, các ông
Trần Ðộ, Phạm Quế Dương, Hoàng Minh Chính, Nguyễn Thanh Giang, Nguyễn Ðan Quế,
Trần văn Khuê, Vũ Cao Quận, v.v... khiến con phải dự phòng như thế !
Cuộc
tranh đấu đòi tự do tôn giáo và dân chủ lần này con cảm thấy rất hãnh diện vì
bên cạnh tín đồ các tôn giáo khác, còn có sự góp phần rất tích cực của người
Ki-tô hữu trong và ngoài nước. Nếu chỉ có tín đồ các tôn giáo khác tranh đấu,
chỉ có các tôn giáo khác tỏ ra tha thiết với sự sống còn và phát triển của Dân
tộc, mà không có người Ki-tô hữu, thì chắc chắn con sẽ buồn và xấu hổ biết bao!
Nhưng rất may không phải như vậy !
Trong
thư chung của HÐGMVN năm 1980, các Ðức Cha đã tha thiết yêu cầu người Ki-tô hữu
phải gắn bó với Dân tộc và Ðất nước. Con nghĩ, điều ấy cần phải thực hiện vào
lúc này hơn bao giờ hết. Lương tâm tự nhiên - chưa cần phải là luân lý Ki-tô
giáo - đòi hỏi như thế. Nhìn về quá khứ, biết bao người Việt Nam nói riêng
và Á Ðông nói chung đã coi mạng sống và sự an nguy của mình, của gia đình mình
nhẹ như lông hồng trước sự sống còn và an nguy của Ðất nước. Trong số những
người hào hùng như thế có rất nhiều thường dân chứ không chỉ có trí thức, tu
sĩ, hay chức sắc tôn giáo! Khi đọc lại lịch sử, con lấy làm lạ và cảm phục đạo
Nho, đạo Lão và đạo Phật xưa đã đào tạo nên biết bao gương anh dũng cao quí như
vậy. Con hy vọng rằng vào thời đại này các tôn giáo ấy, và cả Ki-tô giáo, vẫn
tiếp tục đào tạo được những con người hào hùng như thế.
Chắc
hẳn Ðức Hồng Y, Quý Ðức Cha và Quý Cha đều biết cuốn «Chí khí người thanh niên», một cuốn sách nổi tiếng do Ðức Giám mục
Tihamer Toth viết. Ngay đầu cuốn sách, tác giả đã đưa ra gương hết sức can đảm
của chàng Regulus thành Carthage ,
sẵn sàng chịu đủ mọi cực hình và cái chết trước mắt vì ích lợi của Ðất nước
mình, và cũng để khỏi phải thất hứa với kẻ thù. Ðiều làm con phải suy nghĩ rất
nhiều là câu nói của tác giả : «Ðó là chí
khí và lương tâm của một người ngoại giáo! Thế còn chí khí và lương tâm của
người Ki-tô hữu thì sao ?» Câu nói ấy đã làm con bị dằn vặt, trăn trở và
thao thức rất nhiều trong hoàn cảnh hiện tại của Ðất nước và Giáo hội. Lương
tâm con không cho phép con khoanh tay ngồi nhìn mọi sự xảy ra với con mắt bàng
quan ! Nó đòi buộc con phải làm một cái gì đấy cho Ðất nước, Giáo hội trong khả
năng dù rất hạn hẹp của mình !
Con
bản tính nhút nhát, rất ngại phải lên tiếng như thế này. Nghĩ đến việc phải đối
chất với những người cầm súng trong tay, có thể còng tay mình, có quyền bắt và
đưa mình vào tù, có thể thủ tiêu mình cách này cách khác, hay nghĩ tới những
đau khổ mà mình và gia đình mình có thể phải chịu, nhiều khi con sợ run lên và
muốn tháo lui, thụ động. Nhưng lương tri và lương tâm hỏi con: «Thế thì ai lên tiếng đây? Anh chờ đợi người
khác à? Tại sao người ấy không phải là anh mà phải là người khác? Nếu ai cũng
đều chờ đợi như anh cả, thì Ðất nước và Giáo hội sẽ ra sao?» Ðiều làm con
ngại nhất là gia đình con, nếu con có bị phiền phức gì thì cha mẹ, vợ con của
con sẽ phải khổ, con cái không được chăm sóc giáo dục đầy đủ. Con là người duy
nhất tạo kinh tế cho gia đình và là người không thể thiếu vắng trong việc giáo
dục con cái vào thời buổi nhiều tệ nạn Xã hội như hiện nay. Nhưng lương tâm con
lại hỏi: «Vậy là anh chờ những người độc
thân lên tiếng à?» Quả thật, con cũng chờ những người độc thân và những
người có tiếng nói mạnh trong Giáo hội lên tiếng đấy, nhưng chỉ thấy một vài
người. Những người này dường như cũng đang chờ những người có gia đình, hay
những người thấp cổ bé miệng lên tiếng trước!
Lương
tâm con không chấp nhận cho con cứ chờ người khác làm để mình khỏi phải làm,
hoặc làm sau cho đỡ nguy hiểm! Con nhớ lại lời Chúa : «Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai
con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai không vác thập giá mình mà theo
Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai
liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được» (Mt 10,37-39). Vả
lại, trên đầu mình còn có Thiên Chúa, một Thiên Chúa yêu thương, quan phòng và
làm chủ lịch sử! Những tư tưởng này làm con an tâm và can đảm hơn.
Trước
sự sống còn, phát triển và hạnh phúc của cả một Dân tộc, của Giáo hội, biết bao
người theo tôn giáo khác đã dám coi thường hạnh phúc cá nhân và gia đình mình.
Chẳng lẽ con là người theo Ðức Ki-tô, đã từng lãnh nhận ơn can đảm của Thánh
Thần qua bí tích Thêm Sức, đã từng được đào tạo trong các chủng viện, lại không
dám làm những gì lương tâm đòi buộc?! Ơn can đảm trong bí tích Thêm Sức tác động
thế nào nơi các Ki-tô hữu?
Ðạo
của chúng ta, con nghĩ, cũng không thể kém cỏi trong lãnh vực này : đã có biết
bao Ki-tô hữu xả thân cho Giáo hội và Ðất nước ! Nếu không như thế thì niềm tự
hào của người Ki-tô hữu về tôn giáo của mình quả thiếu căn cứ cụ thể! Ðức tin
phải làm cho người ta thêm can đảm và xả thân hơn cho Quê hương, cho Giáo hội,
cho tha nhân, chứ không thể không có tác dụng gì ! Ðức Ki-tô đã dạy chúng ta
theo gương tự hủy của Ngài, từ bỏ bản thân và vác thập giá mình mà theo Ngài,
để xây dựng Nước Trời. Xây dựng Nước Trời là xây dựng một Xã hội và Giáo hội lý
tưởng, trong đó công lý và tình thương ngự trị, mọi người đều tôn trọng và yêu
thương nhau, nhờ đó hạnh phúc. Ðối với Nước Trời, Ngài đòi hỏi những kẻ theo
Ngài phải sẵn sàng hy sinh tất cả (xem Lc 14,26-27).
«Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách»,
huống gì là những người có học, có chức quyền, địa vị. Ðức Giê-su cũng đòi hỏi
những người được ban nhiều «nén bạc»,
nhiều tài năng, nhiều điều kiện thuận lợi hơn người phải làm lợi cho Thiên
Chúa, tha nhân nhiều hơn những người khác, và họ phải trả lẽ trước mặt Ngài về
việc sử dụng những thuận lợi hơn người ấy (xem Lc 19,12-27). Trước sự sống còn
và phát triển của Ðất nước, của Giáo hội, nếu người dân hay tín hữu ai cũng lo
bảo vệ lấy bản thân mình, gia đình mình, tập thể mình, sẵn sàng chấp nhận tình
trạng «cha chung không ai khóc», bỏ
mặc Ðất nước hay Giáo hội cho ai muốn làm gì thì làm, thì Giáo hội hay Ðất nước
sẽ ra sao ? Người Ki-tô hữu mà có não trạng ích kỷ như thế, làm sao có thể tự
hào hay mạnh dạn rao giảng về đạo của mình ? Rất có thể chúng ta sẽ bị Thiên
Chúa kết án, không phải vì đã làm điều gì gian ác, mà chỉ vì đã bỏ qua không
làm những việc mà lương tâm và tình yêu đòi buộc, nhất là khi ta có điều kiện
và khả năng làm những việc ấy nhiều hơn những người khác (xem Mt 25,31-46; Lc
19,16-31)
Trong
hoàn cảnh của Ðất nước hiện nay, người Ki-tô hữu phải chứng tỏ tinh thần Ki-tô
hữu của mình hơn lúc nào hết. Nếu trước bất công và bạo lực, chúng ta sẵn sàng
cúi đầu, im lặng, không dám nói lên tiếng nói của lương tâm, không dám bênh vực
cho công lý, cho những kẻ đang chịu cảnh bất công, mà lại sẵn sàng ngửa tay ăn
xin ân huệ của những kẻ cầm quyền, xin cả những điều chúng ta có quyền có một
cách chính đáng, thì chúng ta đã sống đúng tinh thần Ki-tô giáo chưa ?
Song
song với việc loan báo Tin Mừng, việc lên tiếng và tranh đấu để bảo vệ công lý
là một trong những nghĩa vụ cao quý đòi buộc mọi người Ki-tô hữu. Ðức Ki-tô
nói: «Những điều quan trọng nhất trong Lề
Luật là công lý, lòng nhân và thành tín» (Mt 23,23). Ðiều ấy đã được Thượng
Hội Ðồng các Giám mục Á châu - trong đó có các giám mục Việt Nam - xác định và
quảng diễn cụ thể hơn: «Các Nghị Phụ
Thượng Hội Ðồng ý thức rất rõ tại nhiều nơi trên thế giới quyền con người vẫn
liên tục bị xâm phạm, nhất là tại Châu Á, nơi có biết bao nhiêu triệu người
đang phải chịu sự kỳ thị, bóc lột, nghèo đói và bị gạt ra bên lề Xã hội. Các
ngài đã nói lên nhu cầu đặt ra cho toàn thể Dân Chúa tại Châu Á là phải nhận
thức rõ về sự thách đố không thể né tránh hay từ khước được, là phải bênh vực
các quyền con người, và cổ vũ cho công lý và hòa bình» (Tông huấn Giáo hội
tại châu Á, số 33§ 2).
Một
khi các giám mục công khai chủ trương phải lên tiếng chống lại bất công, bênh
vực các quyền con người như một «thách đố
không thể né tránh hay từ khước được», nếu trong một Ðất nước có bất công,
có sự vi phạm nhân quyền thật sự và trầm trọng, mà hàng giám mục Ðất nước ấy
lại không lên tiếng hay không làm gì chống lại bất công, thì sự im lặng ấy, vô
tình hoặc cố ý, là một hình thức làm chứng dối. Sự im lặng ấy chính là một cách
nói rằng Ðất nước ấy không có bất công; bởi nếu có bất công thì hàng giám mục
đã lên tiếng rồi, vì chính các ngài đã chủ trương phải lên tiếng trong trường
hợp ấy. Nếu im lặng nhằm gây ích lợi cho cuộc đấu tranh chống bất công, thì đó
là «im lặng đồng tình» với cuộc đấu
tranh. Nếu biết im lặng là có lợi cho phía gây bất công mà vẫn cứ im lặng, thì
đó là «im lặng đồng lõa» với bất
công.
Các
giám mục ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt tại các nước châu Mỹ La tinh, và
mới đây nhất tại Philippine, đã dám công khai lên tiếng bênh vực người nghèo,
người bị áp bức, tố cáo những kẻ gây bất công. Sự lên tiếng ấy nhiều khi phải
trả giá bằng tù đày và cái chết. Ðiều đó làm con nghĩ tới câu của thánh
Phanxicô Salê mà nhiều giám mục hay linh mục khi huấn đức thường trích dẫn: «Ông kia bà nọ nên thánh được, tại sao tôi
không?»
Ít
lâu nay HÐGMVN im lặng trước cuộc đấu tranh đòi tự do dân chủ, đòi những quyền
căn bản của con người, trong đó có tự do tôn giáo. Con nghĩ HÐGM có lý do và khó
khăn riêng của mình, và con rất tôn trọng sự lựa chọn đó. Tuy nhiên, con thiết
tưởng, nếu đã chấp nhận thái độ im lặng, thì nên trung thành với lập trường đó
tới cùng. Nghĩa là nếu đã im lặng thì im lặng cho trót, không nói một điều gì
thuận lợi hay bất lợi cho cuộc đấu tranh ấy, cho dù có phải chấp nhận hàm oan
vì người ta hiểu lầm mình. Nhưng thái độ im lặng cho bên này, nhưng lại lên
tiếng cho bên kia, con nghĩ không phải là một thái độ tốt. Và một khi đã lên
tiếng, thì một giám mục hay linh mục phải luôn luôn đứng về phía đa số người
dân, về phía những người nghèo, những người bị áp bức, đúng theo lựa chọn căn
bản của Giáo hội. Thượng Hội Ðồng các giám mục xác quyết : «Trong khi tìm cách thăng tiến phẩm giá con
người, Giáo hội tỏ ra ưu tiên yêu thương người nghèo và những người không có
tiếng nói, vì Chúa đã tự đồng hóa mình với họ một cách đặc biệt (x. Mt 25,40)»
(Tông huấn Giáo hội tại châu Á, số 34§1). Biết bao người thấp cổ bé miệng không
có tiếng nói, nên phải chịu biết bao đau khổ và bất công. Vì thế, tiếng nói của
các giám mục và linh mục phải là tiếng nói của họ.
Phương
thức đấu tranh
Không
có đấu tranh thì Xã hội không thể tiến bộ được. Không có đấu tranh thì không
thể có tự do dân chủ, vì đó là những thứ không ai cho không. Lịch sử của Ðất nước
và thế giới chứng minh điều ấy. Chính người Cộng Sản cũng chủ trương như thế và
chủ trương mạnh hơn ai hết. Chính Lê-Nin cũng nói: «chỗ nào có bất công, chỗ đó có đấu tranh».
Do
đó, đấu tranh cho dân chủ tự do đích thực luôn luôn là một hành động chính
đáng. Chỉ có những Quốc gia không dân chủ, không tự do, không tôn trọng nhân
quyền mới tìm cách dập tắt mọi hình thức tranh đấu của dân chúng. Ðối với người
Ki-tô hữu, đấu tranh cho chân lý, cho công lý, cho tình thương, cho sự hợp
lý... còn là một đòi buộc «không thể né
tránh hay từ khước được» của lương tâm. Vậy thì tính hợp pháp và hợp lý của
việc tranh đấu cho tự do dân chủ là điều hiển nhiên, ai cũng công nhận, không
cần phải bàn tới nữa.
Nhưng
tranh đấu thế nào là vấn đề chúng ta cần phải suy nghĩ. Chúng ta cần phải chọn
lựa một phương thức tranh đấu phù hợp nhất, hữu hiệu nhất trong hoàn cảnh, địa
vị của chúng ta.
Trước
hết, sự tranh đấu của chúng ta không được nhằm chống lại bất kỳ ai, vì đối với
người Ki-tô hữu, ai cũng là hình ảnh của Thiên Chúa, là con cái Thiên Chúa, là
anh chị em của chúng ta, mà chúng ta có bổn phận phải yêu thương. Theo tinh
thần Ki-tô hữu, chúng ta không nên chống ai cả, nhưng bổn phận của chúng ta
phải là chống lại điều ác, xấu, bất công, phi nhân, phi lý, hoặc những gì sản
sinh ra những cái xấu, ác để mọi người được sống yên ổn và hạnh phúc. Những
điều xấu ác mà chúng ta phải chống có thể nằm ngay trong bản thân mỗi người,
trong mọi tập thể, trong Giáo hội và trong Xã hội. Chúng luôn luôn phát sinh ra
và mặc lấy những hình thức mới, có thể được ngụy trang rất tinh vi, nên việc
đấu tranh chống lại điều xấu ác không bao giờ kết thúc.
Chống
lại điều xấu ác trong Giáo hội hay Xã hội không có nghĩa là chống lại Giáo hội
hay Xã hội, mà trái lại là xây dựng Giáo hội hay Xã hội. Sự phân biệt dễ dàng
ấy rất quan trọng trong cuộc tranh đấu của chúng ta: phân biệt giữa người và
việc, người và phương pháp làm việc, người và cách ứng xử hay hành động của
người Chẳng hạn, giả như HÐGMVN có điều gì không đúng, không hợp lý, không hợp
lương tâm người Ki-tô hữu, nếu có tác hại lớn, thì con cảm thấy có bổn phận
phải lên tiếng chống lại một cách có văn hóa và lễ độ. Ðiều đó không có nghĩa
là con chống lại HÐGM, mà đúng hơn là con xây dựng cho HÐGM.
Vậy,
người Ki-tô hữu có quyền và có bổn phận lên tiếng chống lại những gì xấu, sai
trái, không hợp lý, bất công trong Giáo hội, Xã hội, trong cách cai trị, trong
phương thức điều hành, quản lý của giáo quyền hay chính quyền các cấp.
Theo
con nghĩ và chủ trương, chúng ta cần tranh đấu trong ôn hòa, bất bạo động, tôn
trọng pháp luật, trong yêu thương chứ không phải trong hận thù, xây dựng chứ
không phá đổ, cố gắng tôn trọng sự kiện và tính khách quan chứ không chủ quan,
thiên kiến hoặc hồ đồ. Mục đích tối hậu cho cuộc tranh đấu của chúng ta không
phải là đưa ai lên cai trị, mà là làm sao để mọi người dân đều được tự do, ấm
no và hạnh phúc, nhất là những người cô đơn, yếu thế, nghèo khổ, thất học, mà
trong chế độ nào cũng bị thiệt thòi, áp bức. Giáo hội phải đứng hẳn về phía
những người này, đúng với chọn lựa căn bản của mình.
Nếu
chính quyền tôn trọng nhân quyền, ắt phải chấp nhận và tôn trọng sự tranh đấu
đúng đắn như thế của chúng ta. Nếu họ khó dễ chúng ta, thì chính họ tự chứng tỏ
cho thế giới thấy họ có tôn trọng nhân quyền hay không. Chúng ta cũng nên tạo cơ
hội cho họ chứng tỏ điều ấy.
Cần
phải tôn trọng hiến pháp và pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật chỉ mang tính tương
đối, vì pháp luật do con người đặt ra, nên có thể có ít nhiều thiếu sót. Theo
luân lý Ki-tô giáo, người Ki-tô hữu phải tuân theo luật của Thiên Chúa, của
lương tâm, của sự công bằng và yêu thương hơn luật của con người. Nếu luật của
con người phù hợp với luật của Thiên Chúa và lương tâm, thì con người phải tuân
hành luật đó như luật của Thiên Chúa. Nếu luật của con người đi ngược lại với
luật của Thiên Chúa và lương tâm, thì người Ki-tô hữu phải «vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm»
(Cv 5,29). Vả lại, dù là luật của Thiên Chúa hay của người phàm, thì «lề luật được lập nên vì con người, chứ không
phải con người được dựng nên vì lề luật» (xem Mc 2,27). Do đó, luật nào
phản lại con người, phản lại công lý và tình thương, thì luật đó không có giá
trị, và lương tâm không buộc con người phải tuân giữ. Chính Ðức Giê-su đã cố
tình vi phạm một số những lề luật phản lại hạnh phúc của con người, và Ngài đã
bị bọn kinh sư bắt bẻ, kết án (xem Mt 12,1-8; 12,9-14; Ga 5,1-18; 9,1-34).
Con
người có bổn phận bảo vệ và tuân hành pháp luật, nhưng đồng thời cũng có bổn
phận góp phần làm cho pháp luật ấy trở nên hoàn chỉnh hơn, nhân bản hơn, dân chủ
hơn, tôn trọng các quyền tự nhiên và căn bản của con người hơn. Vì thế, người
Ki-tô hữu cũng có bổn phận góp ý làm cho luật của Giáo hội và Xã hội nên hoàn
chỉnh hơn.
Một
cách cụ thể, trong một Xã hội hay Giáo hội có dân chủ, bất cứ người dân hay tín
hữu nào cũng có quyền góp ý xây dựng hiến pháp và pháp luật. Người dân cứ việc
góp ý, và chính quyền có nhiệm vụ xét duyệt, bàn thảo và nếu thấy sự góp ý ấy
là cần thiết và hợp lý thì nên thay đổi. Vậy, đối với hiến pháp và luật pháp,
HÐGM có quyền góp ý theo lương tâm của mình, để xây dựng Ðất nước. Nếu hiến
pháp hay luật pháp phản lại những nguyên tắc căn bản của hạnh phúc con người,
thì việc góp ý ấy còn là một bổn phận và trách nhiệm của người Ki-tô hữu, nhất
là của những người có tiếng nói trong Xã hội như HÐGM.
Theo
thiển ý con, hiện nay, hiến pháp và luật pháp của Ðất nước ta cần phải được sửa
đổi lại một vài điểm quan trọng để nó hoàn chỉnh và phù hợp với nguyện vọng của
toàn dân hơn. Chẳng hạn:
1.
Ðiều 4 hiến pháp qui định sự độc quyền của đảng Cộng Sản trong việc lãnh đạo
Ðất nước, đồng thời không chấp nhận sự hiện hữu của bất kỳ một đảng phái nào
khác. Hiện nay, đảng Cộng Sản nắm quyền lực tối cao, không một cơ quan nào kể
cả cơ quan quyền lực cao nhất của Ðất nước là Quốc hội có quyền giám sát đảng
Cộng Sản. Ðó là một điều không hợp lý sản sinh ra biết bao tệ trạng trong Xã
hội.
Chúng
ta cần xác định rõ là chúng ta không chống lại đảng Cộng Sản, nhưng chúng ta có
quyền lên tiếng chống lại sự độc quyền và độc tôn ấy nếu chúng ta thấy nó không
hợp lý. Nếu đảng Cộng Sản thật sự là vì dân, do dân, và tôn trọng dân chủ, thì
phải làm theo ý muốn của đại đa số nhân dân. Ðảng không nên dành cho mình quá
nhiều độc quyền: độc quyền cai trị, độc quyền giáo dục, độc quyền chính trị,
độc quyền thông tin, độc quyền kinh doanh, v.vẨ Trong các nước dân chủ, không
có một cơ quan quyền lực nào mà lại không bị giám sát bởi một cơ quan khác,
hoặc lại được phép tự dành cho quá nhiều độc quyền như thế. Nhờ đó nước họ
tránh được biết bao tệ nạn.
Con
rất thích sự kiện xảy ra cách đây một vài năm, đó là cựu tổng thống Mỹ Bill
Clinton - lúc đó đương nắm quyền - phải trả lời trước tòa án vì bị một phụ nữ
nhỏ bé như Monica Lewinsky thưa kiện về một hành động có tính đời tư cá nhân.
Ðưa sự kiện này ra con không có ý ca tụng nước Mỹ đâu, nước Mỹ không phải là lý
tưởng, nó cũng vẫn có những tệ trạng của nó. Nhưng sự kiện ấy thật là cụ thể
tiêu biểu cho tính dân chủ mà ở Ðất nước ta hiện nay chưa có được. Thử hỏi nếu
đảng Cộng Sản làm sai, hoặc có tội, thì ai có quyền buộc tội? Ai dám bảo đảm
rằng những độc quyền trên không bị lạm dụng ?
2.
Nghị định 26/CP qui định và hạn chế quyền tự do tôn giáo, buộc các tôn giáo
phải xin phép cả trong những điều mà thế giới công nhận là quyền tự nhiên và
căn bản của con người. Nhiều Ki-tô hữu trí thức đã lên tiếng góp ý cho nghị
định này, tuy có kết quả nhưng không bao nhiêu. Thiết tưởng về vấn đề tự do tôn
giáo, để có một tiêu chuẩn thỏa đáng, nhà nước nên tham khảo tiêu chuẩn mà đại
đa số các nước trên thế giới đang theo. Thử hỏi những nước ấy cho tôn giáo được
tự do thì bị thiệt hại gì? Tại sao nhà nước quản lý tôn giáo quá chặt chẽ, đang
khi lại quản lý những người trong đảng một cách quá lỏng lẻo, đến nỗi rất nhiều
người đã lạm dụng chức quyền để tham nhũng, hối lộ, trầm trọng đến nỗi đã trở thành
quốc nạn, làm thiệt hại biết bao đến ngân quỹ Quốc gia ? Như thế có phải là bất
công đối với tôn giáo không ?
3.
Nghị định 31/CP cho phép công an bắt giam, quản chế bất cứ ai, bất cứ lúc nào
mà không cần đưa ra tòa xét xử xem có tội hay không. Ðiều này rõ ràng phản lại
hiến pháp, và tạo điều kiện cho kẻ này người kia hành động mờ ám để hại người
khác mà vẫn «hợp pháp». Ðiều 72 hiến
pháp có ghi: «Không ai bị coi là có tội
và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật». Ðiều 2 Bộ Luật Hình Sự cho thấy sự vi hiến của nghị định này: «Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam là luật cơ
bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải
phù hợp với Hiến pháp». Vậy thì trong nước ai bảo đảm cho người vô tội
không thể bị bắt và giam một cách bất công? Ai dám bảo đảm là nghị định này
không bị lạm dụng? Nguyên tắc của của các nhà làm luật là phải soạn làm sao để
tránh tối đa những kẽ hở mà kẻ xấu có thể lạm dụng.
Còn
nhiều chuyện khác phải sửa đổi, nhưng đó là những điều căn bản nhất. Sửa đổi
những điều này không phải là những chuyện quá lớn lao hoặc gây xáo trộn trong
nước. Nó chỉ có thể có lợi cho Ðất nước và dân chúng chứ không thể có hại. Vì
thế, chúng ta cần mạnh dạn lên tiếng để Ðất nước có dân chủ và tự do thật sự,
các tôn giáo được phát huy tối đa khả năng giáo hóa để góp phần xây dựng Ðất
nước, người dân ngay chính được an tâm và bảo đảm trong đời sống của mình.
***
Ðó
là một số thiển ý mà con muốn nói lên để góp ý xây dựng Giáo hội và Ðất nước
nhân dịp HÐGMVN họp vào một thời điểm hết sức đặc biệt của Giáo hội và Ðất
nước. Chắc chắn sự góp ý này không tránh khỏi ít nhiều thiếu sót, thiển cận,
chủ quan, thành kiến mà con cũng đã cố gắng tránh hết sức có thể.
Con
cũng hết lòng xin Ðức Hồng Y, Quý Ðức Cha và Quý Cha tha thứ, nếu con chưa đủ
tế nhị khi phải nói lên những điều mà lương tâm con buộc phải nói, khiến Ðức
Hồng Y, Quý Ðức Cha và Quý Cha cảm thấy bị xúc phạm. Thực ra, thâm tâm con vẫn
luôn hết lòng quí mến và tôn trọng Ðức Hồng Y, Quý Ðức Cha và Quý Cha mà con
coi là những người đại diện cho Thiên Chúa.
Sau
cùng, con xin kính chúc Ðức Hồng Y, Quý Ðức Cha và Quý Cha thư ký luôn mạnh
khỏe, được ơn sáng suốt và can đảm trong việc lãnh đạo dân Chúa, nhất là trong
giai đoạn cực kỳ khó khăn và đặc biệt này.
Tp.
Hồ chí Minh, ngày 14-9-2001
Một Ki-tô hữu Việt Nam
Gioan Nguyễn Chính Kết
6/8A, Quang Trung, Phường 12,
Quận Gò Vấp, Tp. Hồ chí Minh.
Email: sntm_nck@yahoo.com
Gioan Nguyễn Chính Kết
6/8A, Quang Trung, Phường 12,
Quận Gò Vấp, Tp. Hồ chí Minh.
Email: sntm_nck@yahoo.com
No comments:
Post a Comment